Monday, November 23, 2009

CÚNG SAO GIẢI HẠN

http://thuvienhoasen.org/doile-cauxin-sm.jpg
Hàng năm, cứ vào dịp đầu năm Âm Lịch, nhất là tuần lễ thứ hai trong tháng Giêng mà cao điểm là ngày Rằm, người Phật tử Việt Nam và Trung Hoa thường có lệ đi chùa dâng sớ cầu an cúng sao giải hạn. Vì là ngày Rằm đầu năm nên các chùa ở trong nước cũng như hải ngọai thường tổ chức lễ rất trọng thể nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng Phật tử. Hầu như chùa nào cũng có chương trình cầu an đầu năm. Tuy nhiên vẫn còn một số chùa nhận ghi danh Phật tử cúng sao giải hạn vào ngày Rằm tháng Giêng. Đến thăm một ngôi chùa khá lớn và nổi tiếng tại Hà Nội vào dịp đầu năm vừa qua, chúng tôi cũng thấy chương trình cầu an đầu năm từ ngày mồng tám đến ngày Rằm, có cúng sao giải hạn. Lễ Phật xong, chúng tôi vào phòng khách thăm thầy trú trì. Trong phòng cũng khá đông Phật tử đến nhờ thầy xem tuổi, xem sao hạn và ghi danh vào danh sách cần cúng sao giải hạn. Chúng tôi nghe thầy nói với một Phật tử: “Phật tử năm nay sao Thái Bạch, vào hạn khánh tận, thái bạch là sạch cửa nhà, phải dùng tám ngọn đèn hay tám ngọn nến làm lễ hướng Tây, mỗi tháng cúng vào ngày Rằm, khấn đức Thái Bạch Tinh Quân”. Tới lượt Phật tử khác và cứ như thế, người vào người ra mang trong lòng nỗi buồn vui đầu năm theo những vì sao đã an bài cho đời mình trong năm.

Tôi rời chùa mà lòng như không vui, tự hỏi ai đã đem tập tục cúng sao giải hạn vào nơi già lam, biến chốn thiền môn nghiêm tịnh thành nơi thờ cúng Thần Tiên, cầu hên xui may rủi cho con người và cũng thương thay cho những ai đặt lòng tin không đúng chỗ, trao phận mình cho người khác sử lý qua việc khấn sao xin giải trừ hạn xấu.

Thật ra, lễ Rằm Tháng Giêng, còn gọi là lễ Thượng Nguyên là lễ hội dân gian ở Việt Nam, được du nhập từ nước láng giềng Trung Hoa phương Bắc. Gọi thượng nguyên là cách phân chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung nguyên (Rằm tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo mặt trăng. Theo một số sách Trung Hoa, như Đường Thư Lịch Chí, quyển 18 thì có chín ngôi sao phát sáng trên trời. Có sách nói là bảy sao, rồi về sau có sách thêm vào hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín vì sao đó là Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch nữa thành mười sao. Chín vì sao này hay còn gọi là Cửu Diệu là các sao phối trí theo các phương, sắp xếp theo mười hai chi và ngũ hành. Theo sách này cho rằng thì hàng năm mỗi tuổi âm lịch chịu ảnh hưởng của một vì sao gọi nôm na là sao chiếu mạng. Do đó có năm gặp sao tốt, có năm gặp sao xấu. Hai sao La Hầu và Kế Đô là sao xấu, là loại ám hư tinh vì hai sao này chẳng thấy được mặt trời.

http://thuvienhoasen.org/cungsaogiaihan-01.jpg
Đó là theo tập tục dân gian vốn có từ thời xa xưa mông muội, khi mà con người cảm thấy quá bé nhỏ trước thiên nhiên, bị đủ loại bệnh hoạn mà chưa tìm ra thuốc chữa, cho là vì các vị Thần trừng phạt, nên sợ sệt trước đủ mọi loại Thần mà họ có thể tưởng tượng ra được, từ thần Sấm, thần Sét, thần Cây Đa, cây Đề, thần Hổ, thần Rắn, thần Núi, thần Sông (Hà Bá) v.v…

Nhưng căn cứ vào kinh sách liễu nghĩa của nhà Phật, theo lời Phật dạy trong Pháp Tứ Y : "y cứ theo kinh liễu nghĩa, chẳng y cứ theo kinh không liễu nghĩa", thì chúng tôi thấy không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Tuy vậy, vẫn có một số ít chùa, ở những vùng địa dư còn chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống tín ngưỡng dân gian đa thần, thì các vị tu sĩ Phật giáo cũng đành phải, gọi là tùy duyên hóa độ, tùy theo niềm tin của đa số quần chúng sơ cơ học đạo giải thoát, mà tổ chức các buổi lễ lạc, bên cạnh những nghi thức thuần túy Phật giáo, mục tiêu cũng vẫn là dùng phương tiện để hóa độ chúng sinh, từ từ chuyển tâm họ quay về bờ Giác. Ngoài ra, cũng có một số chùa ở chốn thị thành, mặc dầu biết việc cúng sao giải hạn là không phù hợp với chánh pháp nhưng vẫn duy trì, hoặc do nhu cầu phát triển chùa cần sự trợ giúp của thí chủ, hoặc vì lo ngại Phật tử sẽ đi nơi khác hay theo thầy bùa, thầy cúng mà tội nghiệp cho họ phải xa dần Phật đạo.

Tại sao chúng tôi nói là không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Bởi vì tất cả họa và phước mà con người có được đều là do nhân quả của chính người ấy làm nên. Bảy ngôi sao, chín ngôi sao hay mười ngôi sao nói ở trên là do chính con người đặt tên và vẽ cho mỗi ngôi sao mang một đặc tính, chứ đức Phật không hề nói về chúng. Ngài dạy chúng ta về nhân quả. Ngài dạy rằng không có quả nào từ trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất hiện lên, mà đều do các hành động qua tâm, khẩu và ý của con người tạo ra. Con người tạo nhân tốt lành thì quả tốt lành nhất định đến. Thí dụ như chúng ta muốn có cam ngọt thì chúng ta phải chọn giống hay chiết cành từ cây cam ngọt, như cam Texas chẳng hạn. Thêm vào đó chúng ta phải chăm sóc, bón phân, tưới nước đúng thời kỳ, thì thế nào chúng ta cũng sẽ hái được cam ngọt.

Tương tự như vậy, mọi sự thành công hay thất bại trong đời của mỗi người không phải do ai ban phát cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta tạo tác sẽ trổ quả xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ qủa tốt. Nhà Phật có câu “muốn biết thời quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà chúng ta đang lãnh. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”; Tuy nhiên, nhân quả không đơn thuần mà rất đa dạng, trùng trùng, chẳng phải chỉ do trực tiếp ở đời hiện tại mà lại có thể do ảnh hưởng từ nhiều đời trong quá khứ, ngoại trừ những người tu hành liễu đạo, tới được trạng thái "Tâm Không" thì: "Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không"(Vĩnh Gia Huyền Giác).

Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng. Phật giáo dạy rằng bất luận việc gì xảy đến cho chúng ta, đều do một hay nhiều nguyên nhân, chớ không do ngẫu nhiên, thời vận hên xui hay số mạng an bài.

Đối với Phật giáo, không có ngày nào xấu, mà cũng không có ngày nào tốt, mà cũng không có sao hạn xấu tốt. Nếu ta đi coi xăm, bói quẻ, coi sao, coi hạn, thầy nói ngày ấy tốt mà lại đi làm những chuyện không tốt lành, như ăn trộm, gây gỗ, đánh nhau, giết người, chắc chắn chúng ta sẽ bị pháp luật trừng trị và ngày tốt do ông thầy nói ấy trở thành ngày xấu ngay. Như vậy ngày tốt, ngày xấu không có cơ sở, chỉ là do con người bày ra mà thôi. Lại thí dụ có hai đạo quân giao tranh, đều chọn ngày tốt và giờ hoàng đạo ra quân, vậy mà chỉ có một bên thắng, và cả hai bên, dù thắng dù thua, cũng đều có tử sĩ và thương binh. Chọn ngày tốt mà làm việc giết người thì quả trổ ra sẽ có chết chóc là vậy.

Đối với sự cúng sao giải hạn, nếu chỉ mua sắm lễ vật mang lên chùa để xin thầy cúng sao La Hầu, Kế Đô hay Thái Bạch gì đó để giải hạn xấu giùm thì nghịch lại lý Nhân Qủa. Nếu vị thầy cầu xin đức Thái Bạch Tinh Quân, đức La Hầu Tinh Quân, … tha tội, giải hạn xấu nổi thì những người giầu có cứ tạo ác rồi sau đó xin thầy cúng sao giải hạn cho tai qua nạn khỏi, cho khỏi bị tù tội, tạo nhân ác mà hưởng được quả thiện, thì toàn bộ nền đạo lý xây dựng trên quan điểm về lý Nhân Quả mà nhà Phật rao giảng phải sụp đổ sao?

Có người hỏi rằng, nếu chỉ tin vào quy luật Nhân Quả thì có nên cúng bái Cầu Siêu, Cầu An không?

Xin thưa, cúng bái Cầu Siêu, Cầu An khác với cúng Sao giải hạn.

Trường hợp Cầu Siêu, đó là một hình thức tưởng niệm người đã qua đời, với tâm thành ước mong thần thức người quá vãng được sanh về nơi tốt đẹp. Chuyện lời cầu có được đáp ứng hay không thì chưa ai chứng minh bằng khoa học được. Nhưng lòng thương nhớ mà thân nhân dành cho người quá vãng nếu được biểu lộ bằng những buổi lễ trang nghiêm, với niềm tin tưởng thành kính, chí tâm cầu nguyện cho người quá vãng, thì nếu như thần thức người quá vãng còn trong trạng thái thân trung ấm, sẽ có thể có cảm ứng tốt mà vơi đi nỗi buồn rầu, lo sợ, sân hận, có thể tạo được cơ hội cho nghiệp lành dẫn dắt mà tái sanh.

Ngay như những buổi cúng giỗ, nếu gia đình người quá vãng có thể thiết lễ trên chùa, cùng nhau vì người quá vãng mà tụng một thời kinh, dùng một bữa cơm chay tịnh, thì ngoài biểu tượng của lòng hiếu thảo từ con cái hướng lên cha mẹ, hoặc tình thương mến đối với người thân nhân đã qua đời, cũng còn là một duyên lành của những người tham dự với nhà Phật khởi lên từ kỷ niệm đối với người quá vãng.

Còn trường hợp lễ Cầu An thì chúng tôi thiết nghĩ, nếu muốn có được kết quả tốt thì chính người bệnh phải cùng với thân nhân tham dự buổi lễ. Mà phải tham dự với tâm niệm chí thành. Người bệnh và tất cả thân nhân đều đồng tâm chí thành tụng niệm, thì ngay trong những giờ phút chí thành đó, tâm họ đã thanh tịnh. Nhà Phật quan niệm rằng tất cả Thân và Tâm đều vô thường, cho nên khi Tâm chuyển thì nghiệp chuyển, nghiệp chuyển thì bệnh chuyển. Bệnh là do Thân, Khẩu, Ý Nghiệp xấu tạo nên.
Có câu: "Tâm được tịnh rồi, tội (nghiệp) liền tiêu".

Vậy muốn Cầu An cho có kết quả thì ngoài vị thầy, chính người bệnh và thân nhân phải cùng nhau hành trì để cho Tâm được tịnh. Sự kiện thân nhân nên cùng tụng niệm là để cho người bệnh được tăng trưởng niềm tin khi thấy có bạn đồng tu, chứ nhân vật chính vẫn phải là người bệnh. Còn như chỉ đưa tiền cho vị thầy để nhờ thầy tụng niệm giùm, rồi xoa tay hoan hỉ về nhà chờ kết quả thì trái quy luật nhân quả. Vị thầy tụng niệm thì Tâm thầy tịnh, người bệnh không được ảnh hưởng, ngoại trừ chút hy vọng.

Đức Phật là vị đạo sư, Ngài không làm chuyện bất công là ban phước hoặc giáng họa cho ai, đã dạy chúng ta rằng phải tạo nhân lành để hưởng quả tốt trong Nhân Thừa. Rồi Ngài dạy chúng ta con đường để thăng tiến trong năm Thừa của nhà Phật, từ Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, rồi đi tới giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.

Quý vị tu sĩ trong đạo Phật là Trưởng Tử Như Lai, hiển nhiên là phải nối tiếp bước chân của Đức Phật mà soi chiếu Ánh Đạo Vàng cho Phật tử, dạy Phật tử những điều Phật dạy trong kinh. Quý vị tu sĩ Phật giáo không phải là những người môi giới giữa Thần Thánh và tín đồ như tu sĩ của một số tôn giáo khác, tự nhận là có thể cầu xin Thần Thánh ban ơn giáng họa được. Chúng ta cần dùng trí tuệ để hiểu rõ con đường Giải Thoát của nhà Phật.

Trong kinh Phật Giáo Nguyên Thuỷ (kinh Trường Bộ), Đức Phật đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, những người đã thọ dụng sự cúng dường của tín thí Phật tử, không nên thực hành những tà hạnh như: “chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem địa lý, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng mờ, … sắp đặt ngày lành để đưa (rước) dâu hay rể về nhà, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước, …”

Ngoài ra, cũng trong kinh Nguyên Thuỷ (Giải Thoát Kinh), Đức Phật đã dạy về giáo pháp của chư Phật. Ngài dạy rằng:

“Ai hành trì chánh Pháp
Là cúng dường Đức Phật
Bằng cách cao quí nhất
Trong các sự cúng dường…”

Pháp mà Ngài dạy có thể tóm lược trong ba điều, đã trở thành quen thuộc với mọi người Phật tử:

“Không làm các việc ác
Siêng làm các việc lành
Thanh tịnh hoá tâm ý…”

Như vậy, nếu mỗi Phật tử đều hành trì ba điều Đức Phật dạy kể trên thì giờ nào, ngày nào, tháng nào hay năm nào cũng đều là giờ hoàng đạo, là ngày tốt, tháng tốt và năm tốt cả; đâu cần phải đi nhờ thầy cúng sao giải hạn nữa. Và hành trì như thế mới là cách cúng dường cao quý nhất trong các cách cúng dường Đức Phật.

Theo thuvienhoasen.org

Nghĩ về “phương tiện” cúng sao giải hạn đầu năm.

Sau Tết Nguyên đán thì có một cái lễ không kém phần quan trọng đó là lễ Thượng nguyên hay còn là Tết Nguyên tiêu. Và đi kèm với nó là lễ Cầu an cúng sao giải hạn. Có những chùa làm lễ này vào ngày mùng 8 tháng Giêng, có chùa làm ngày rằm. Đó có lẽ là phong tục lâu đời, và cũng chắc chắn không ai biết nó được “du nhập” vào đạo Phật từ lúc nào. Tôi đã đọc được những tài liệu nói về sao hạn này và biết đó là của Lão giáo.

Tôi nghĩ khi mà đạo Phật bị ảnh hưởng mạnh Nho và Lão, thì đó là chuyện tất nhiên. Và giờ đây, đạo Phật đầy dẫy những ảnh hưởng “nghiêm trọng” từ Nho - Lão. Đạo Phật như một cây bồ đề mà toàn thân nó bị bám đầy cây cộng sinh tầm gởi. Đó là điều hiển nhiên mà ai cũng thấy. Điều quan trọng là chúng ta có dám nhìn vào sự thật không.

Thật vậy, bản chất của đạo Phật là từ bi và trí tuệ hay nôm na là tình thương và hiểu biết. Căn bản của đạo Phật được xây dựng trên giáo lý như Tứ đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi… Trong đó, Duyên khởi được đề cập như một chân lý sống động. Bởi chính Đức Phật đã từng tuyên bố “thấy được lý Duyên khởi là thấy được pháp…”. Vạn pháp sinh và diệt trong vũ trụ này đều theo những nguyên tắc duyên sinh và duyên diệt. Mỗi hữu tình đều có những nghiệp duyên riêng của mình và chịu sự tác động trực tiếp của nghiệp (karma) mình đã tạo ra; chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực ấy. Nghiệp đó có thể là thiện hoặc bất thiện và nó đã được tạo ra trong quá khứ hay trong hiện tại. Cũng chính Đức Phật dạy “Hãy nhìn vào quả hiện tại mà biết nhân quá khứ và hãy nhìn vào nhân hiện tại mà biết quả tương lai…”. Đó chính là nhân quả ba đời quá khứ - hiện tại - vị lai. Điều đó không ai có thể chối bỏ nếu biết nhìn bằng cặp mắt quán sát trí tuệ.

Theo như “phương tiện giáo hóa chúng sinh”, hàng năm các tự viện đều tổ chức lễ Cầu an đầu năm và thường kết hợp cúng sao giải hạn cho Phật tử. Có nơi thì gọi là lễ Cầu an giải hạn, có nơi gọi tránh đi là lễ Tiêu tai diên thọ… Phương tiện thì mỗi người một cách, nhưng chung quy vẫn là muốn “an tâm” cho chúng hữu tình. Chùa tôi cư trú cũng vậy, cũng làm lễ này cho những Phật tử. Trên bàn bày la liệt đèn xếp theo các ngôi sao chủ chiếu hay còn gọi là sao chiếu bổn mạng. Theo quan niệm dân gian thì con người mỗi năm chịu sự chiếu mạng của 9 vì sao (La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương, Vân hớn, Kế đô, Thái âm và Mộc đức). Trong 9 ngôi sao chiếu mạng ấy có 2 ngôi sao tương ứng cho 2 năm xui. Đó là năm nào sao Thái bạch chủ chiếu cũng xui “Thái bạch sạch cửa, sạch nhà. Ốm đau, bệnh hoạn cùng là tai ương”; và “Nam La hầu, nữ Kế đô” nghĩa là nam gặp năm sao La hầu, nữ gặp năm sao Kế đô thì xui. Những ai bị các ngôi sao đó “chiếu mạng” thì coi như năm đó xui tận mạng nếu không đề phòng. Còn lại các ngôi sao khác “chiếu” thì xui... ít hơn. Đó là chưa kể đến các “bát hạn”: Huỳnh tuyền, Tam kheo, Ngũ mộ, Thiên tinh, Tán tận, Thiên la, Địa võng, Diêm vương. Mỗi hạn đều có những tai nạn “vận hạn” khác nhau. Rồi năm “tứ hành xung”, năm “ngũ hành tương khắc”… Nhìn lại chẳng có năm nào hoàn toàn tốt đẹp 100%. Vậy những điều đó là sao? Nếu chúng ta có Chánh kiến và Chánh tư duy thì chúng ta cần mạnh dạn nhìn thẳng vào các phương tiện này.

Tôi nói việc này vì có mấy người Phật tử đã nói chuyện này với tôi và hỏi tôi quan niệm thế nào. Họ nói khi hỏi quý thầy thì có thầy tin chuyện ấy, có thầy phản bác, có thầy lấp lửng. Điều đó làm cho họ cảm thấy bối rối. Tôi nói quan niệm của tôi là nếu tin theo Đức Phật thì tin tuyệt đối vào duyên khởi, tin vào nhân quả ba đời… Ngoài ra còn có sự cầu nguyện Đức Phật bằng cách niệm danh hiệu Ngài và chư vị Bồ tát gia bị cho chúng ta bằng sự chí thành “cảm ứng đạo giao”, thì mình sẽ có một đời sống an lạc. Tốt hay xấu đều do chính mình vì vận mệnh là do mình làm chủ. Tất cả phải do mình tạo ra ngay đời này và giây phút hiện tại. Bởi trồng một cây cho trái đắng thì không thể đòi hỏi có quả ngọt được, đó là quy luật. Để cuộc sống chúng ta có những thiện nghiệp và giảm đi những tai nạn do bất thiện nghiệp đã gây ra trong quá khứ thì chúng ta phải biết thực hành Chánh pháp. Đó là biết bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Những người đến hỏi tôi về vận hạn, tôi chỉ khuyên họ hãy tinh tấn niệm ân Đức Phật và Bồ tát, thực hành giáo pháp, chịu khó bố thí và phóng sinh… Và hãy làm hết lòng chân thành chứ không phải chuyện qua loa, đối phó khi thấy run sợ trước những “lời phán”.

Tôi được biết vào dịp đầu năm người ta thường đi lễ cầu xin, dâng sao, giải hạn… Một lá sớ trung bình vài chục đến vài trăm nghìn. Đó là chưa nói đến các VIP lập đàn riêng từ vài chục triệu đến vài trăm triệu. Tôi có anh bạn Phật tử nói anh được các thầy cho biết năm nay sao Thái bạch chiếu mạng và lại là hạn “Thiên tinh mắc phải ngục hình”, khuyên anh nên dâng sớ giải hạn. Anh đã làm theo sự chỉ dẫn “cung tiến” viết sớ giải hạn vào rằm này tại một ngôi chùa lớn ở TP.HCM. Anh nói đã làm theo nhưng vẫn chưa an tâm nên hỏi tôi có làm gì thêm không. Tôi nói đã tin vào việc cúng sao giải hạn, sao lại không an tâm mà còn bất an? Tôi hỏi tại sao không lấy tiền đó đi làm từ thiện hay đi phóng sinh? Tôi phân tích cho hiểu; nhưng có lẽ cũng khó mà “thủng” vì nó đã ăn sâu vào “thâm căn cố đế” của anh cũng như những người dạng như vậy rồi. Vào mỗi dịp lễ hội, các phương tiện truyền thông trong nước cũng đã đề cập nhiều với ý “tế nhị” không đi sâu vào, vì dẫu sao cũng là lĩnh vực riêng của tôn giáo.

Tôi có quen một số anh chị em ở một công ty tại Hà Nội. Hàng năm, cứ sau Tết là làm lễ cúng sao giải hạn. Cả công ty “bầu đoàn lớn nhỏ” dắt nhau đi từ chùa này sang chùa khác, đình này sang miếu nọ để… dâng sớ cúng sao giải hạn. Tất nhiên là họ cũng bố thí rất nhiều, phóng sinh rất nhiều. Và có lẽ, ở Hà Nội và các tỉnh lân cận thì chuyện này không có gì là lạ. Nó đã trở thành “máu thịt” của họ rồi. Như một số chùa được các tờ báo phản ảnh về số lượng người về lễ và dâng sớ giải hạn. Trong Nam, ngoài Trung cũng vậy, nhưng ít hơn. Đạo Phật chỉ xem những việc ấy là phương tiện. Phương tiện trong một lúc nào đó thôi, chứ những chuyện ấy đâu phải là cứu cánh. Nếu các chùa cứ duy trì và phát triển hình thức ấy thì chắc hẳn không phù hợp với tôn chỉ của đạo Phật. Đạo Phật trí tuệ, lại bị “cột nhốt” vào những quan niệm và hành sự như vậy thì thật nghịch lý.

Tôi nhìn đạo Phật rồi tự lựa chọn cho mình một con đường đi. Pháp do người hành đạo nói ra thì nhiều lắm. Mỗi người diễn dịch theo một cách, một quan niệm, trình độ, nhận thức… Sai - đúng chỉ có người thực tập thật sự mới thấy điều đó. Với tôi, trước sau như một, tôi làm theo điều mà chư Tổ đã dạy: “Hãy bỏ lớp vỏ cây mục ruỗng bên ngoài mà lấy cái lõi cây bên trong”, nó cũng giống như việc dát bỏ vỏ cây gió bầu để lấy kỳ nam vậy. Cây bồ đề hơn 25 thế kỷ qua đã quá nhiều tầm gởi cộng sinh. Nếu không phá bỏ sự cộng sinh ấy thì nó sẽ chết mà chẳng có cách nào cứu chữa. Mạt pháp hay không chẳng phải lời huyền ký mà do chính nghiệp chính chúng ta hành ngày hôm nay…
Bạn nghĩ thế nào?

Theo Báo GiacNgo.Vn

CÁC VẬT KHÍ HOÁ SÁT - CÁT TƯỜNG TRONG PHONG THUỶ

CÁC VẬT HOÁ SÁT THƯỜNG GẶP

1/ Tiền Áp Tuế ( còn gọi là Tiền Thái tuế )
Đây là đồng tiền xưa bằng đồng , ngoài tròn tượng trưng cho trời , giửa có lỗ vuông nhỏ tượng trưng cho đất , một mặt có in hình Bát Quái , một mặt có in hình Thập Nhị Địa Chi.
Thường dùng để Hoá giải cho những ai có hướng nhà phạm Thái Thuế hay Tuế Phá , hoặc tuổi mình năm đó phạm Thái Tuế hay Tuế Phá.
Cách dùng : Lấy dây ruy băng đỏ hay chỉ đỏ cột và treo ở vị trí mình thường thấy , hoặc bỏ trong bóp-ví , hoặc treo trước cửa cái. Đừng ngại dây đỏ là Hoả khắc Kim , vì màu đỏ là tượng trưng cho năng lượng Dương mạnh nhất trong các màu , nên nó sẽ kích hoạt tính Dương cho Vật khí PT rất hiệu nghiệm.

2/ Kỳ Lân
Về Kỳ Lân mình cũng đã nói nhiều rồi , nên nay chỉ nói sơ qua.
Thời xưa , Kỳ Lân được coi là một trong Tứ Linh : Long , Lân , Quy , Phụng. Nó tác dụng Chiêu Tài , Nạp Khí lẫn Hoá Sát , công dụng rất rộng
Những trường hợp Hoá Sát thường dùng Kỳ Lân như : Thương Sát hơi lớn như đại lộ , Bạch Hổ Sát , Thiên Trảm Sát lớn như khe hở giửa 2 toà nhà cao tầng đối diện , Hoạch Hình Sát.
Còn 1 loại Kỳ Lân có phía trên lưng giở lên được, chuyên dùng bỏ trong két sắt để Thâu Hút Tài Lộc.

3/Ngựa đồng :
Con vật này cũng quá quen thuộc nên có lẽ mình cũng không cần mô tả nó ra làm gì rồi.
Tính chất của ngựa là bôn ba đây đó , chủ động. Vì vậy khi dùng để kích hoạt thì thích hợp với những người làm nghề đi đây đó nhiều ( người tuổi Tý không nên dùng ) , hoặc chuyển đổi chỗ làm ( trường hợp này thường dùng Phi Mã-ngựa có 2 cánh 2 bên thân- hiệu lực sẽ nhanh hơn ).
Ngoài ra, Ngựa còn được dùng trong Phong Thủy với tác dụng kích hoạt việc bán nhà nhanh.
Khi Hoá Sát thì nó thường dùng cho các trường hợp : Liêm Đao Sát , Thiên Trảm Sát.

4/Hồ lô đồng :
Nói tới hồ lô chắc ai cũng biết hình dáng các bầu hồ lô trong các... phim Tuý Quyền [:D][:D] , nhưng hồ lô cũng là bầu đựng thuốc của Thái Thượng Lão Quân. Cho nên , công dụng đầu tiên của nó chính là Hoá giải bệnh tật.
Các trường hợp Hoá Sát thường dùng Hồ lô đồng là : Cô Phong Sát , Xuyên Tâm Sát , Thanh Sát.
Ngoài ra , Hồ Lô đồng còn có 1 công dụng mà ít ai để ý đó là giúp tình cảm vợ chồng đằm thắm thêm.
Khi Hồ Lô đồng kết hợp với tiền đồng Chiêu Tài Tiến Bảo, gọi là Hồ Lô Vận Tài sẽ có công năng như 1 Hồ Lô thâu hút Tài Lộc.

5/Hồ Lô gỗ :
Hồ Lô đồng công dụng khác , Hồ Lô gỗ công dụng khác.
Ngoài khả năng Hoá giải tật bệnh ra , nó còn thường được dùng để Hoá Sát : Độc Âm Sát , Cô Dương Sát.
Khi nhà có người bệnh lâu ngày , thì Hồ Lô gỗ có hiệu lực mạnh hơn Hồ Lô đồng , nhưng phải treo 3 cái.

6/ Minh Chú Hồ Lô :
Hồ Lô thì ta đã biết , còn Minh chú chính là Lục Tự Đại Minh Chú " Om Mani Pad Me Hum " được khắc trên thân Hồ Lô hoặc khắc trên 1 miếng Mạn Đà La treo chung với Hồ Lô. Nó có nhiều chất liệu , nhưng loại tốt nhất chính là Lục Ngọc , kế đến là bằng Bạch Ngọc , rồi đến Thạch Anh. Do Hồ Lô lẫn Lục Ngọc đều có công năng trừ bách bệnh , nên tính năng đầu tiên của nó là dùng cho những trường hợp bệnh lâu năm không khỏi , nhất là có người già trong nhà thì treo nó trong phòng rất tốt cho sức khoẻ.
Minh Chú Hồ Lô có công năng Hoá Sát rất mạnh , nó thường được dùng trong các trường hợp : Phản Quang Sát , Cô Phong sát , Bạch Hổ Sát , Pháo Đài Sát , Khai Khẩu Sát , Cô Dương sát , Độc Âm Sát , Thích Diện Sát , Đỉnh Tâm Sát.
Và thường những trường hợp các Hình Sát này mạnh mới cần sự hỗ trợ của Minh Chú Hồ Lô , bởi những Hình Sát mạnh thì vật chuyên Hoá sát nó cũng không đủ lực nếu chỉ đặt 1 mình.

7/. NGŨ ĐẾ MINH CHÚ :
Tiền cổ Ngũ Đế thì ai cũng biết , Minh Chú cũng là Lục Tự Đại Minh Chú. Khi 2 vật này đi kèm chung với nhau thì công năng Hoá Sát của nó cũng rất hay. Thường thì Minh Chú trong trường hợp này được khắc trên Bạch Ngọc.
Những người làm nghề chính đáng mà gặp rắc rối với pháp luật mãi thì có thể treo nó ở cửa sau nhà, hoặc nơi làm việc có thể yên ngay.
Những nhà mà suy khí không tan dù đã tẩy uế trược nhiều lần, tác động PT vẫn vậy thì có thể treo nó để hoá giải.
Ngoài ra, nó còn được dùng trong các trường hợp Hình Sát : Phản Quang Sát mạnh, Liêm Đao Sát, Bạch Hổ Sát nhẹ, Xuyên Tâm Sát, Cân Trời Xung Xạ Sát, Liêm Trinh Sát, Đỉnh Tâm Sát.

8/. LONG QUY :
Đây là 1 loại Linh Thú ghép từ Long và Quy trong Tứ Linh, có hình dáng 1 con Rùa với đầu Rồng. Nó mang tính dũng mãnh của Rồng, và tính chịu đựng bền bĩ của Rùa, hơn nữa cả 2 loại Linh thú này đều hợp với Thuỷ, nên tính nó cũng hợp Thuỷ. Đây là Vật Hoá Sát chuyên trị...Đại Hung Tinh Tam Sát. Người xưa nói muốn nhanh phát phải đấu Tam Sát, ngoài việc dùng năm tháng ngày giờ đấu Tam Sát còn có ý nghĩa này, dùng vật trấn để xây dựng nơi phạm Tam Sát.

Còn 1 loại Long Quy nữa chuyên dùng để kích hoạt Tài Lộc đó là Long Quy với phần mu rùa bên trên giở ra được. Loại này chuyên dùng bỏ trong két sắt, tủ tiền để Thâu Hút Tài Lộc.

9/. CHUÔNG GIÓ KỲ LÂN :
Là 1 loại chuông gió để bàn, tủ không phải loại chuông gió treo. Nó có 1 chân đế tròn với những thanh đồng xuống, thanh đồng ở giửa để chạm vào phát ra tiếng leng keng có hình 1 con Kỳ Lân hay Tỳ Hưu ở giửa, nhưng thường thì người ta làm Kỳ Lân nên mới gọi là Chuông gió Kỳ Lân. Do có nhiều nơi có địa thế, hình thù đặc trưng không thể treo chuông gió người ta mới dùng loại này, ngoài những tính năng thông thường của Chuông gió ra, nó còn có Lực Hoá Sát khá mạnh, và tác dụng Chiêu Tài.
Nếu là Thương Sát mà dùng nó thì nên đặt ở góc trái phía trên cửa; 2 cửa sổ đối diện nhau mà nhà kia đông người hơn, người ta cũng dùng nó để chận Tài Khí không trôi sang nhà kia.
Những Hình Sát mà nó hoá giải là : Thương Sát, Pháo Đài Sát.

10/. TIỀN MAI HOA :
Đây là đồng tiền có 5 cánh trồi ra ngoài giống hệt như 1 đoá hoa mai nở rộ. Công dụng của nó chỉ chuyên dùng : ngừa kẻ tiểu nhân và Thăng quan tiến chức.

11/. BÁT QUÁI ĐẠI VƯƠNG MINH CHÚ :
Đây là sự tổng hợp của 2 loại Bát Quái và Đại Vương Minh Chú, công năng Hoá Sát của nó có thể nói là chuyên dùng cho những Hình Sát mạnh, khó trị. Bởi ngoài tính năng Bát Quái ra, nó còn được kết hợp thêm uy lực của Đại Vương Minh Chú của Phật Pháp.
Có 2 loại : Hậu Thiên và Tiên Thiên. Loại Hậu Thiên dùng cho nhà nào vừa có Hình Sát vừa muốn chuyển hướng. Loại Tiên Thiên chỉ chuyên dùng Hoá Sát.
Gần như những Hình Sát lớn, ngoài vật chuyên trị theo cách thông thường ra, nếu kết hợp với nó thì uy lực tăng lên không thể nghĩ bàn vậy.

12/. CHUÔNG LA BÀN BÁT QUÁI :
Là loại chuông treo có in hình Bát Quái bên thân, nó không giống hình dạng như chuông gió ta thường thấy, mà có hình dạng y như các quả chuông của các nhà thờ với 1 hình khối trụ chụp xuống và 1 thanh giửa có gắn quả bi tròn, khi có gió lắc nó sẽ chạm vào bên trong thành chuông, làm phát tán năng lượng Bát Quái bên ngoài.
Công năng Hoá Sát của nó mạnh hơn bất kỳ con thú nào. Nhưng nếu là chuông nhỏ thì không đủ lực hoá giải Hình Sát lớn.

Thường thì đi kèm với Chuông La Bàn Bát Quái là bên thành chuông có khắc hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát hay là bài Đại Bi Chú.


13/.KIM NGUYÊN BẢO :
Nghe tên thì thấy lạ nhưng thực ra nó là loại các thỏi vàng mà người ta thường bày trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa. Công dụng chính của nó là để Sinh tài, Vượng tài.
Ngoài ra nó còn dùng để Hóa giải chỗ ngồi, chỗ nằm vì lý do không thể xoay trở khác được, mà phải hướng lưng, đầu ra cửa sổ.

14/.TIỀN CỔ LỤC ĐẾ:
Là loại tiền giả cổ ngoài tròn giửa có lỗ vuông, thuộc năm triểu đại thịnh vường của nhà Thanh: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang. Nhiều nơi bày bán vật này hay có lối nói tiền cổ, và...chém đẹp, nhưng thực ra tiền cổ thật không có công năng mạnh bằng tiền thật.
Những người đó họ dùng chiêu bài" tiền cổ là loại tiền lưu hành thời đó, đã qua tay nhiều người sử dụng nên tốt, vì có Tài Khí". Đó chỉ là cách nói bao biện, không hợp với lý của Phong Thủy, bởi chúng ta là người sống, cần là cần những năng lượng Dương tích cực, cần chi năng lượng Âm đó. Tiền càng mới càng có hiệu quả cao!! Chính vì vậy những đồng tiền này luôn được xỏ dây đỏ, dùng năng lượng Dương của màu đỏ để kích hoạt thêm tính Dương của các đồng tiền vậy.
Trong Phong Thủy, Tiền Lục Đế thường được dùng để Hóa Sát trong các trường hợp: Phản Quang Sát, Liêm Đao Sát, Bạch Hổ Sát, Thiên Trảm Sát, Xuyên Tâm Sát, Pháo Đài Sát, Khai Khẩu Sát, Cân Trời Xung Xạ Sát, Phản Cung Sát, Liêm Trinh Sát, Đỉnh Tâm Sát. Trong Phong Thủy Huyền Không thì Tiền Lục Đế thường dùng để Hóa Giải các sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc.

15/.MINH CHÚ QUAN ÂM:
Đức Quán Thế Âm thì cũng biết Ngài là bậc Đại Từ, Đại Bi chuyên cứu giúp nạn tai, tật khổ. Còn Lục Tự Đại Minh Chú của Ngài có thể hàng yêu phục ma, giải trừ xui rủi. Cho nên cả hai kết hợp lại là vật Hộ Thân, Giử Thân, giảm tai họa đến nhà, thúc đẩy tài vận và giữ bình an.
Công cụ này thường dùng cho người làm việc ở nơi vui nhộn, hay ở nơi công việc phức tạp, và thích hợp nhất với nữ giới. Do có hình tượng Quán Thế Âm nên thường mang tính giống vật trang sức đeo bên người, sẽ không có cảm giác đeo vật Phong Thủy 1 cách lộ liễu như các vật khác.

16/. KỲ HƯU (còn gọi là Tỳ Hưu) :
Đây là 1 loại thú trong thời Thượng Cổ. Có 2 loại : Kỳ Hưu thì có 1 sừng chuyên Chiêu Tài, Nạp Bảo. Còn Tịch Tà thì có 2 sừng chuyên Trấn Trạch. Hình dáng bên ngoài chúng thì giống nhau cả, duy chỉ khác con 1 sừng, con 2 sừng thôi.
Với Kỳ Hưu thì những ai có thu nhập xốc nổi, hay kiếm tiền bằng mẹo vặt thì rất thích hợp đặt nó.

17/. GƯƠNG BÁT QUÁI:
Gương Bát Quái có rất nhiều loại : Gương Bát Quái phẳng, gương Bát Quái lồi, gương bát Quái lõm, những loại này thường bằng gỗ và kiếng. Gương Bát Quái Hổ phù, gương Bát Quái Trấn Trạch, gương Bát Quái Chuẩn Đề, gương Bát Quái Đại Đế, những loại này bằng đồng.
_ Gương Bát Quái phẳng và lồi thường dùng để Hóa Giải các trường hợp Thương Sát, Hỏa Hình Sát, Đỉnh Tâm Sát, Tam Xoa Sát. Nhưng tùy trường hợp mà sử dụng loại nào (vì Hình Sát nhỏ không nên dùng gương Bát Quái lồi) và thêm những công cụ khác trên gương.
_ Gương Bát Quái lõm thường dùng để Hóa Giải các trường hợp cầu thang đổ ra đường, nhà nhìn từ cửa trước thông thẳng ra cửa sau. Và gương Bát Quái lõm là loại có thể treo trong nhà.
_ Gương Bát Quái Hổ phù thường dùng để Hóa Giải Ngũ Hoàng Sát, Tam Xoa Sát, Thương sát, Đỉnh Tâm Sát, Thích Diện Sát.
_ Gương Bát Quái Trấn Trạch là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Bát Quái, mặt kia là 1 Phù Trấn Trạch với 2 thanh thư hùng Thất Tinh Kiếm. Ngoài các công năng Hóa Giải như gương Bát Quái thường ra, nó thường dùng cho trường hợp nhà đối diện các nhà tang lễ, trại giam, bệnh viện, nghĩa trang...nói chung là những nơi có sự chết chóc.
_ Gương Bát Quái Chuẩn Đề là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt in hình Phật Chuẩn Đề với 18 tay cầm 18 món Pháp khí, mặt kia là vòng tròn Bát Quái cộng với bài chú Chuẩn Đề. Đây đúng ra là Pháp Khí Hóa Giải của Phong Thủy Mật Tông Tây Tạng, công năng của nó rất mạnh. Ngoài những tính năng đặc biệt như gương Bát Quái Trấn Trạch ở trên, nó còn dùng cho trường hợp nhà ở mà trước đây chủ trước xài Lỗ Ban nuôi "binh", hoặc nhà có Âm binh khuấy phá. Đây là loại gương Bát Quái đồng có thể treo trong nhà.
_ Gương Bát Quái Đại Đế là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Vô Cực Đại Thiên Tôn (chính là Ngọc Hoàng Đại Đế) với Phù Trấn Trạch, mặt kia in hình Bát Quái. Gương này ngoài những công năng đặc biệt bên trên của các gương kia còn có sức Hóa Giải các hình tượng Thập Tự Giá khổng lồ đối diện nhà, các nhà đối diện treo gương có hình Tử Vi Đại Đế cưỡi trên Kỳ Lân cầm gương Bát Quái chiếu sang nhà mình.
Guơng Bát Quái thường có 2 loại Tiên Thiên và Hậu Thiên. Hóa Sát dùng Tiên Thiên, Xoay chuyển hướng dùng Hậu Thiên.

18/.VẬN TÀI ĐỒNG TỬ :
Theo truyền thuyết, Vận Tài Đồng Tử chính là Thiện Tài Đồng Tử bên cạnh Quán Thế Âm Bồ Tát, chuyên biến hiện ra rất nhiều tiền bạc, của cải giúp đỡ cho người nghèo. Nên sau này người ta dùng hình tượng của Thiện Tài Đồng Tử như 1 vị Thần chuyên đem Tài Lộc đến, thành thử mới có tên Vận Tài là vậy.
Vận Tài Đồng Tử trong Phong Thủy có nhiều hình dạng khác nhau : tượng 1 đồng tử gánh 2 gánh vàng, tượng 2 đồng tử đang đẩy xe vàng(cái này có nơi còn gọi là Thôi Xa Tiến Bảo), tượng 2 đồng tử đang quay cối xay...tiền, tượng đồng tử đạp trên lưng con sư tử tay cầm Hốt Như Ý...v..v..rất nhiều. Nhưng tựu trung tất cả đều giống như nhau, với mục đích chính là Chiêu Tài Tiến Bảo.
Ngoài ra, Vận Tài Đồng Tử còn dùng trong 1 vài trường hợp Hóa Sát (thường nó đi kèm với thứ khác) như: Phản Cung Sát, Pháo Đài Sát.
Đặc biệt, Vận Tài Đồng Tử rất thích hợp với nhà toàn nam giới chưa kết hôn.

19/.MÃ THƯỢNG PHONG HẦU:
Vật khí này có thể là 1 bức tranh (hơi bị...khó kiếm), nhưng thường là tượng bằng đồng, hoặc là miếng ngọc bội. Với câu chữ hiểu theo nghĩa đen là "con khỉ cưỡi trên con ngựa" nên nó cũng mang hình dáng như vậy. Nhưng thực ra đây là cách chơi chữ của người Hoa, vì 2 chữ Mã Thượng (mă shang) đi chung với nhau được hiểu là "lập tức"; còn Phong Hầu chính là phong quan tấn tước ( Hầu là 1 tước vị rất lớn ngày xưa) ; cho nên ghép lại chính là : đặt vật này sẽ được "lập tức thăng quan". Nói như thế chắc các bạn đã biết công dụng của Vật Khí này để làm gì rồi đấy, nó rất thích hợp cho người làm nhân viên nhà nước.

20/.THÁI SƠN THẠCH CẢM ĐƯƠNG :
Đây là Vật Hóa Sát khá phổ biến trong Phong Thủy, nhất là ngoài miền Bắc. Theo truyền thuyết thì ngày xưa ở núi Thái có 1 vị đạo sĩ tên Thạch Cảm Đương, ông nhờ tài giỏi đã đánh đuổi được yêu quái chuyên quấy nhiễu các khuê nữ, nên người ta mới dùng tên ông khắc vào đá để trấn yêu, trừ tà.
Vật khí này thường có những dạng: 1 miếng đống khắc 5 chữ đó và thêm 1 đầu Hổ(thường thấy nhất là dạng trên gương Bát Quái đồng), 1 con Long Quy chở trên lưng tấm bia khắc 5 chữ này, 2 con Kỳ Lân ngồi trấn 2 bên bảo vệ 1 tấm bia khắc 5 chữ này( thường thấy nhất).
Ngoài việc trừ tà ma vào nhà khuấy phá, Vật Khí này còn được dùng để trấn Thương Sát lớn(giống như đồ vật chưng trên tủ hướng ra cửa, không phải treo Bát Quái, cho những ai ngại treo Bát Quái), Thiên Kiều Sát.

21/.CÓC 3 CHÂN VÀ LƯU HẢI TIÊN NHÂN :
Theo truyền thuyết đây là 1 con yêu quái, được Tiên nhân Lưu Hải thâu dụng, và ông cũng được liệt vào trong 1 số các vị Tiên mang tài lộc đến cho dân gian. Thường thấy nhất là hình tượng cóc 3 chân dẫm lên trên các đồng tiền, cũng có loại cóc 3 chân ngồi trên 1 đế Bát Quái có tấm liễn Tài Nguyên Quảng Tấn phía trước, có loại bằng bột đá, có loại bằng đồng. Nhưng bằng đồng là hay nhất, vì khi đặt nó ở Tài Vị sẽ thích hơn.
Bởi trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa thường phải đầy đủ Ngũ Hành, mà cóc 3 chân bằng đồng là mang hành Kim rồi.
Lưu Hải Tiên Nhân là vị tiên thu phục cóc 3 chân. Hình tượng của ông là 1 vị Tiên 1 tay cầm sợi dây trói con cóc 3 chân, mà dây này đầu kia là 1 xâu tiền. Còn 1 hình tượng khác của ông là cầm Pháp khí, dùng để trừ tà, nhưng sau lưng ông cũng có 1 xâu tiền hàm ý Chiêu Tài.
Cóc 3 chân và tượng Lưu Hải Tiên Nhân thường đặt ở phương Tài Vị trong nhà. Cóc 3 chân còn thường được đặt trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa với mặt cóc quay vào, nhớ đừng nghe người ta bày "ban ngày quay ra, tối quay vào" là không đúng đâu. Ngoài ra, cóc 3 chân còn được đặt ở cá góc xó trong nhà, vì bản chất của cóc thích ở các góc là 1, ở các xó góc trong nhà(đầu quay vào) còn mang hàm ý cóc đem của cải vào giấu trong nhà mình là 2.

22/.THUYỀN CHỞ VÀNG:
Đây là lấy ý, dùng hình tượng mà Tác động, kích hoạt Tài lộc trong nhà, và tốt nhất là với cá cơ sở kinh doanh, làm ăn mua bán. Đó là 1 chiếc thuyền buồm trên chất đầy thỏi vàng, để quay mũi tàu vào nhà, trên cánh buồm viết 4 chữ Nhất Phàm Phong Thuận(1 chiếc thuyền buồm thuận gió) hay 4 chữ Tiền Trình Dĩ Cẩm(tương lai đẹp như gấm). Có thể là loại thuyền buồm bằng gỗ, có thể là loại bằng đồng. Nhưng nếu mua dạng thuyền gỗ theo kiểu thuyền buôn cổ Trung Hoa mới đúng là 1, trên thuyền không có các khẩu thần công, vì để quay mủi tàu vào có nó thụt cho mà chít[8D].
Vật này mang hàm ý như có 1 chiếc tàu chở đầy vàng chạy vào nhà, vào nơi làm ăn của mình, đem lại lợi lộc, của cải.

23/. THỦY TINH CẦU :
Thủy tinh cầu_ Thạch Anh cầu trước đây vốn dĩ là 1 loại chuyên dùng cho các vị tu theo phái Mật Tông Tây Tạng, dùng để trợ cho các vị ấy pháp tu viên mãn. Nó có hình dạng 1 quả cầu tròn, có thể làm bằng Pha Lê, có thể làm bằng Thạch Anh.Trong Phong Thủy, Thủy tinh cầu_ Thạch Anh cầu dùng để tăng cường năng lượng. Cần tìm phương vị tốt thích hợp mà đặt nó, vì nếu đặt vào nơi xấu nó cũng sẽ thúc đẩy cái xấu luôn. Các quả Thủy tinh cầu năng lượng phát ra không bằng Thạch Anh cầu, và trong các loại thì Thạch Anh Tím phát ra năng lượng mạnh nhất.

24/. NIÊN NIÊN HỮU DƯ
Đây là bức tranh vẽ hình cá (thường là 8 con đỏ và 1 con đen) và hoa sen, trên viết 4 chữ Niên Niên Hữu Thực. Nhiều người giải thích cho rằng hoa sen (liên) hàm ý liên tục, cá là biểu tượng tài lộc trong PT, và gán ghép thành ý "tài lộc liên tục".
Nhưng thực ra đây là câu thành ngữ xuất phát từ vùng núi Trung Quốc. Vốn dĩ ngày xưa vùng núi không gần sông biển, nên cá rất mắc, chỉ những nhà giàu có mới có tiền ăn. Cho nên người ta vẽ tranh cá và đề trên đó 4 chữ Niên Niên Hữu Thực (hàm ý "năm năm đều có cá mà ăn", ngụ ý ước mơ được giàu có) mà cầu mong được Dư dả để có cá ăn quanh năm suốt tháng. Lâu dần nó trở thành biểu tượng Phong Thủy. Và hoa sen chính là cái vẽ thêm sau này, vì hoa sen có lá thuộc dạng hình phễu, là 1 loại hút sóng rất mạnh, thêm vào để Thu Hút sự mong cầu của mình đến nhanh. Ngoài ra, sen còn là biểu tượng của sự an lành.
Cho nên tranh Niên Niên Hữu Dư là biểu tượng để kích hoạt Tài Lộc trong Phong Thủy.

25/. TRÚC BÁO BÌNH AN
Bình trong Phong Thủy là biểu tượng của Bình An. Cho nên nếu các bạn xem phim Trung Quốc luôn thấy người ta chưng rất nhiều bình trong nhà là vậy.
Trúc vừa tượng trưng cho người quân tử, vừa là biểu tượng, Bình An, Thịnh Vượng. Nên ngày xưa người ta hay trồng trúc quanh nhà là thế, vừa lấy bóng mát, giữ đất, vừa mong cầu bình an, sung túc.
Trúc Báo Bình An chính là dùng 1 cái bình đẹp cắm biểu tượng cây trúc vào đó. Đây là biểu tượng của Bình An và Thịnh Vượng.

26/. LONG MÃ
Đây cũng là 1 loại thú ghép giửa Long và Mã (rồng và ngựa). Long có tính biến hóa, uyển chuyển; Mã có tính dũng mãnh, khôn ngoan; nên Long Mã là sự kết hợp tuyệt vời. Nó thích hợp với những người làm cơ quan nhà nước, ở vai trò lãnh đạo. Trong Phong Thủy, Long Mã ngoài việc dùng tạo uy quyền cho lãnh đạo, còn chuyên hóa giải Tam Sát như Long Quy. Long Quy thì mang tính chịu đựng, còn Long Mã mang tính đấu tranh.

27/. HỒ LÔ BÁT TIÊN
Là hồ lô đồng có hình tượng Bát Tiên xung quanh thân hồ lô _mỗi vị cầm 1 món binh khí của mình.
Bát Tiên là 8 vị Tiên trong truyền thuyết Trung Quốc (Hà Tiên Cô, Lam Thái Hòa, Trương Quả Lão, Hớn Chung Ly, Lý Thiết Quài, Lã Đồng Tân, Tào Quốc Cữu, Hàn Tương Tử), tài phép vô song, chuyên Trảm yêu Trừ ma, tạo phúc bá tánh. Trong Phong Thủy, 8 vị Bát Tiên này tượng trưng cho sự trấn giữ 8 hướng, cho nên bày trí Bát Tiên trong nhà dù dưới hình thức nào (tranh, tượng, hồ lô Bát Tiên, dĩa Bát Tiên...) cũng mang lại sự tốt lành cả.
Hồ lô có tính Hút, nên việc dùng Hồ lô để Hóa Giải hay kích hoạt cũng dùng tính năng này.
Hồ lô Bát Tiên là loại Pháp Khí của Mật Tông Tây Tạng cũng lợi dụng tính năng hút này, nó có công dụng kích hoạt Vượng Khí rất tốt, và công năng trừ tà mạnh nhờ vào hình tượng Bát Tiên. Cho nên việc đặt Hồ lô Bát Tiên phải tìm vị trí Vượng Khí thích hợp để đặt nó, không thể đặt bừa được.

28/. KIM THIỀN-NGỌC THIỀN
Chữ Thiền này là chữ Thiền trong bộ Trùng của chữ Hán, có ý nghĩa là con ve. Vậy Kim Thiền là biểu tượng con ve bằng đồng, còn Ngọc Thiền là biểu tượng con ve bằng ngọc vậy.
Ve phát ra âm thanh rất lớn, và liên miên, nên ve cũng là biểu tượng của sự Miên Miên Bất Tận.
Công dụng của việc đặt Ve là giúp trẻ tiến bộ trong học tập, không ngừng phấn đấu, luôn giành vị trí cao trong trường lớp. Với các bé gái lười có thể tìm Ngọc Thiền cho các cháu đeo, có thể giúp các cháu trở nên siêng năng cần mẫn, và có chí hướng hơn.

29/. VOI ĐỒNG

Nói về Voi đồng mình đã từng nói trong phần Phong Thủy Học, nay xin nhắc lại trong Chuyên Mục này cho các bạn tiện việc theo dõi.
Voi rất giỏi hút nước, mà nước (Thủy) là tiền tài, nên công dụng đầu tiên của Voi chính là Hút tài lộc.
Voi cũng là con vật chuyên chở nặng, nên người ta lợi dụng tính năng này của Voi để chống đỡ các áp lực nặng trong Phong Thủy.

Ngoài ra Voi Đồng còn dùng để Hóa Giải các Hình Sát : Thiên Kiều Sát, Thích Diện Sát.
Voi Đồng có nhiều dạng : có khi chỉ là cặp voi bằng đồng bình thường, có khi Voi đồng chở trên lưng 1 chú Cóc 3 Chân, có khi Voi chở trên lưng là 1 cái đấu (giống cái đấu đựng cống phẩm ngày xưa), có khi Voi chở trên lưng là 1 cái Hốt Như Ý....vv... Nhưng tựu trung nếu kích hoạt Tài Lộc thì dạng nào cũng như nhau cả.

30/. HỐT NHƯ Ý
Cái này mình không biết diễn tả hình dáng ra sao, nhưng nếu các bạn để ý trong bộ tượng Tam Đa (Phúc Lộc Thọ), tượng Ông Phúc trên tay có cầm cái Hốt Như ý này. Ý nghĩa của nó thì như tên gọi, thỏa mãn ước nguyện và việc gì cũng như ý. Hốt Như Ý có thể làm bằng nhiều hình tượng khác nhau, nhưng nếu làm rời 1 mình nó thì thường làm bằng chất liệu ngọc, đá Thạch Anh
Khi đứng riêng 1 mình nó thì người ta có thể chưng riêng nó trên 1 cái giá đỡ để nằm ngang, hoặc bỏ nó vào trong cái bình thiệt đẹp, khi này nó sẽ là biểu tượng Bình An Như Ý.
Thường thấy nhất là biểu tượng Hốt Như Ý đi kèm với các con thú lành hay Linh Thú. Như Rồng cầm Hốt Như Ý, Long Quy chở Hốt Như ý, voi chở Hốt Như Ý. Khi đi kèm với Hốt Như Ý thì Lực Hóa Giải hay Chiêu Tài, kích Vượng của các Linh Thú cũng mạnh lên nhờ vào ý nghĩa của Hốt Như Ý.

31/. HOA MẪU ĐƠN
Hoa mẫu đơn được tôn vinh nhiều nhất trong thời nhà Đường, nhất là vào những năm của Vua Đường Minh Hoàng trị vì. Có 2 câu thơ của nhà thơ Lý Chánh thời ấy nói về hoa mẫu đơn như sau : Thiên hương tại nhiễm y
Quốc sắc triều cam rượu
(Hương trời nhuộm lên áo, quốc sắc như say rượu)
Cho nên hoa mẫu đơn còn được gọi là Quốc Sắc Thiên Hương chi hoa. Còn nhà thơ Âu Dương Tu thì ca ngợi hoa mẫu đơn là " Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn "( trong thế gian chân chính xứng mang tên hoa chỉ có mẫu đơn). Chính vì 2 nhà thơ lớn này ca ngợi mà Hoa Mẫu Đơn được xem như là biểu tượng của Phú Quý, sang cả. Khi chưng Hoa Mẫu Đơn trong Bình đẹp, là ta đã có 1 biểu tượng "Phú Quý Bình An" trong Phong Thủy vậy.
Mặt khác, vẻ đẹp đầy đặn của Dương Quý Phi (Dương Ngọc Hoàn, 1 trong Tứ Đại Mỹ Nhân của Trung Quốc) được Đường Minh Hoàng say đắm đến mất cà ngôi vua, nên Hoa Mẫu Đơn còn là biểu tượng của Đào Hoa, dùng để kích hoạt trong Tình Duyên. Nhưng khi 2 vợ chồng trẻ chưng trong phòng thì giúp tình cảm vợ chồng thêm nồng thắm, còn vợ chồng trung niên hay đứng tuổi mà chưng trong phòng ngủ sẽ khiến các ông dễ...lập thêm phòng nhì, hay có bồ nhí bên ngoài.

32/. BẢO GIẢI
Giải chính là con cua. Cua thường có tính đi ngang, cho nên công năng của nó đầu tiên phải nói đến là đánh bại những kẻ ngang ngược, kiếm chuyện vô cớ, hoành hành trong cơ quan, công sở.
Ngoài ra cua có cái khí thế hơi...bá đạo, nên nó cũng là 1 vật dùng để trị tà (mà là những nơi chuyên bị âm binh khuấy phá).
Cua thường được làm bằng đồng. Nhiều nơi người ta làm không chỉ dạng cua bình thường bằng đồng, mà còn làm thêm các thỏi vàng bên dưới, ngụ ý Bảo Giải Cát Tường ( cua báu đem lại may mắn, tốt lành).

33/. LONG PHỤNG TRÌNH TƯỜNG
Long Phụng tức Rồng và chim Phượng Hoàng thì không cần nói ai cũng biết là 2 Linh Thú đứng đầu trong Tứ Linh rồi (đứng đầu không phài xếp theo thứ tự, vì cả 2 con đều bay lượn trên ngàn mây, mà con thú nào trên không là đứng đầu theo chiến thuật quân sự của Trung Quốc xưa_ cả ngày nay vẫn đúng_ nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng).
Thông thường người ta dùng Rồng để tượng trưng cho người nam, còn chim Phượng Hoàng tượng trưng cho người nữ, nên trong các đám cưới người ta dùng kèm biểu tượng Rồng Phượng là thế. Và người ta cũng chúc những câu tương tự vậy : Long Phụng hảo hợp, Long Phụng hòa duyên... Trong chế độ phong kiến xưa, chỉ có Vua và Hoàng Hậu mới được ví với Rồng và Phượng Hoàng, đủ thấy đây là 2 biểu tượng Linh Thú rất Cao Quý.
Khi đứng riêng 1 mình thì Long có tác dụng ngừa tiểu nhân, hóa giải sát khí; còn Phụng thì có tác dụng Chiêu Quý Nhân, kích hoạt sự nghiệp.
Khi Long Phụng đứng chung gọi là Long Phụng Trình Tường (Rồng Phượng bày điều lành) có tác dụng kích hoạt tình duyên, đem lại điều may mắn, Hóa Giải tất cả Sát Khí ở nơi đặt nó. Long Phụng Trình Tường có thể làm bằng Ngọc (dạng ngọc bội đeo), bằng gốm sứ cao cấp, bằng đồng.
Khi đứng riêng 1 mình, Long có thể làm bằng nhiều chất liệu, đá thường có, đá quý có, đồng có, vàng có,...vv... và cũng có nhiều kiểu dáng Kim Long Như ý, Song Long Hý Châu, Văn Xương Kim Long, Ngọa Long, Thụy Long...vv..
Khi đứng riêng 1 mình thì Phụng thường được dùng trong tranh vẽ nhiều hơn, và nổi tiếng nhất có lẽ là hình tượng Bách Điểu Triều Phụng (100 con chim về chầu chim Phượng Hoàng). Tranh này người ta thường dùng nhất trong Phong Thủy để giúp cho sự nghiệp mình ngày càng nổi tiếng.

34/. THẬP NHỊ HOA GIÁP :
Là biểu tượng của 12 con giáp. Có khi nó gồm đủ 12 con giáp, nhưng có 1 con lớn làm chủ đạo, các con kia xung quanh, khi đó sẽ là vật Áp Tuế, chuyên Hóa Giải cho những người bị hạn Thái Tuế, hay làm nhà mà phạm Hướng Thái Tuế.
Khi đứng riêng rời thì nó dùng để kích hoạt cho những trường hợp Tam Hạp : Ví như người tuổi Thân Tý Thìn thì chọn các con vật trong bộ ba Thân(khỉ)-Tý(chuột)-Thìn(rồng) đặt ở các vị trí tương ứng.
Trong các trường hợp các Vật Khí này được làm kèm với các thỏi vàng, đồng tiền vàng thì chuyên để kích hoạt Tài Lộc cho các tuổi trong bộ Tam Hạp thôi, không kích hoạt chung nữa.
Riêng với trường hợp con giáp là Hổ, thì hình tượng Hổ trong Vật Khí luôn là biểu tượng của sức mạnh, Uy Quyền, nên nó là vật dùng thích hợp nhất với các người lãnh đạo, người làm sếp trong các cơ quan, công ty trong các tuổi Dần-Ngọ-Giáp-Tân (nhưng không là Giáp Thân).

35/. KỲ LÂN TỐNG TỬ :
Đây là do điển tích ngày xưa khi mẹ Khổng Tử trước khi mang thai Ngài, thì nằm mộng thấy 1 đứa bé cởi trên lưng con Kỳ Lân, sau đó thụ thai sinh ra Ngài, nên sau đó người ta xem như đây là biểu tượng tốt để báo hiệu có con, và dùng nó như 1 vật kích hoạt về đường Tử Tức. Thường là biểu tượng này bằng đồng, cũng có bằng tranh nhưng rất ít thấy.

36/. THÁP VĂN XƯƠNG:
Đây là hình tượng tháp 7 tầng hay 9 tầng tại Trung Quốc, Bình Sơn nguyên lãng, chuyên dùng để kích hoạt cho việc học vấn, tri thức. Tháp Văn Xương có nhiều chất liệu, có loại bằng đồng, có loại bằng Thạch Anh, có loại bằng Pha Lê. Đúng ra trong Phong Thủy, Tháp Văn Xương không quan trọng việc chọn số tầng, bởi Tháp Văn Xương bên Trung Quốc có nơi làm 7 tầng, có nơi làm 9 tầng. Nhưng có nhiều người_ nhất là mấy "ông...thần ve chai Trung Quốc"_ chế ra nam dùng 7 tầng, nữ dùng 9 tầng, cái đó không quan trọng, và cũng không đúng, xin các anh chị, các bạn đừng lầm mà lo ngại khi mình mua cho con cái rồi mà nó không đúng số tầng như những lời ngoa ngôn kia.

37/. PHÁP TRƯỢNG:
Đây là biểu tượng tối cao tượng trưng cho quyền lực trong Tôn Giáo. Nếu như các anh chị, các bạn có xem phim "Vua bò cạp" chắc sẽ thấy hình tượng của nó. Pháp trượng có thể làm bằng nhiều chất liệu khác nhau : đồng sáng, gỗ quý, ngọc quý. Nó thường dùng cho những người có chức sắc trong các cơ quan nhà nước, các vị lãnh đạo công ty tượng trưng cho Uy Quyền, ngăn ngừa tiểu nhân, đem lại Quyền Lực.

38/. TAM ĐA:
Cái này thì mình đã nói rất nhiều , và hầu như ai cũng biết Tam Đa chính là : Phúc Lộc Thọ. Bộ Tam Đa có thể bằng gốm sứ, bằng đồng, bằng đá quý, bằng hình tượng Phong Thủy Luân, bằng tranh Phúc Lộc Thọ toàn đồ. Biểu tượng Tam Đa tượng trưng cho 3 vị Thần đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà nên thường người ta hay chưng, bày trong nhà.

39/. PHA LÊ:
Pha Lê có 2 loại : Thiên nhiên và nhân tạo, đương nhiên thì loại thiên nhiên tốt hơn loại nhân tạo rất nhiều, nhưng cũng đắt hơn rất nhiều. Pha Lê tuy trong tiếng Hoa gọi là "shui jing"_Thủy Tinh_ nhưng nó thực ra lại mang Hành Thổ, vì bản chất Thủy Tinh vốn dĩ là loại đá ở dưới biển sâu hàng trăm ngàn năm.
Trong Phong Thủy, Pha Lê có công dụng giải trừ vận rủi, đem lại may mắn cho người dùng nó, nên Pha Lê trở thành vật trang sức được nhiều người ưa chuộng (phần vì nó rất đẹp, ra ánh nắng nó tỏa đủ 7 màu như 7 sắc cầu vồng vậy). Pha Lê ngoài việc làm đồ trang sức ra, nó còn được dùng làm Tháp Văn Xương, Kim Tự Tháp để kích hoạt, Hóa Giải trong Phong Thủy.

40/. TAM DƯƠNG KHAI THÁI
Đây là biểu tượng 3 con dê đứng chung với nhau, thường được làm bằng đồng. Đó là lấy ý nghĩa từ trong Kinh Dịch mà ra.
_ Kinh Dịch nói về quẻ Thái : Thái, tiểu vãng, đại lai, cát hanh. Hàm ý quẻ Thái tượng kẻ tiểu nhân lánh xa, người quân tử đến gần, tượng thông thuận, hanh thông, cát tường
_ Đại tượng truyện quẻ Địa Thiên Thái nói " Thiện Địa giao thái, hậu dĩ tài thành Thiên Địa chi đạo". Ta thấy tượng của quẻ là Càn 3 vạch dương liền dưới quẻ Khôn 3 hào Âm đứt đoạn, 2 quẻ trên dưới mâu thuẫn nhau, tượng khí trời thì giáng xuống, khí đất từ dưới xông lên, 2 khí giao nhau nhờ đó mà vũ trụ giao hòa, các vật, sự việc đối nghịch nhau trở thành vuông tròn, thành tựu.
Cho nên, quẻ Thái nói chung là biểu hiện điều tốt lành, cho nên mới có câu "hết cơn Bĩ cực tới hồi Thới lai"_ Bĩ là quẻ Thiên Địa Bĩ, Thới tức là Thái của quẻ Địa Thiên Thái_ để chỉ khi ta qua hết cơn khốn đốn đến vận hanh thông trở lại. Quẻ Thái tốt là nhờ sự nghịch đảo của quẻ Càn bên dưới, mà Càn có 3 hào Dương. Người ta lấy sự đồng âm trong Hán Ngữ mà chọn chữ Dương là dê, 3 hào Dương trở thành hình tượng 3 con dê là thế. Thay vì 3 hào Dương khai mở ra quẻ Thái lại trở thành 3 con dê đem lại quẻ Thái, đem lại sự thông thuận.
Tóm lại, người đang gặp vận rủi cần chuyển hóa thời vận thì nên đặt biểu tượng này, để cầu mong đem lại sự thông thuận như ý quẻ Thái.

41/. Chiêu Tài kim tiền:
Là các đồng tiền có khắc bốn chữ "Chiêu Tài Tiến Bảo" hoặc "Kim Ngọc Mãn Đường" xâu kết lại với nhau, chuyên dùng kích hoạt Tài Lộc. Có thể là 3 đồng tiền kết với nhau bằng dây ruy băng đỏ để treo trên tay nắm cửa hay bỏ trong bóp, hoặc dán trên bìa cuốn số ghi doanh thu để giúp tăng thu nhập. Có khi là xâu 8 đồng tượng trưng cho Bát Bạch Vượng khí của Vận 8 này, mà chữ Bát cũng đồng âm như chữ Phát trong tiếng Hoa. Có khi là một xâu gồm 10 đồng tiền, hàm ý Thập toàn Thập mỹ.

42/. Bình An kim tiền:
Là tiền đồng lớn có khắc bốn chữ "Xuất nhập bình an"
Nó có công dụng hoá giải Khai Khẩu Sát, hoặc ngăn ngừa đàn bà trong nhà lắm lời. Mặt khác, nếu dùng 2 đồng tiền này dưới gối sẽ giúp cho mối quan hệ vợ chồng được tốt đẹp hơn.

43/. Tiên Nữ hoa đào:
Thường gặp nhất là bằng tranh với hình vẽ Tiên nữ tay cầm cành hoa đào. Đôi khi hình tượng này cũng có trong các đĩa kiểu Trung Quốc, có giá để chưng.
Đây là vật mang lại Tài lộc, Công danh và Hỷ tín cho người nữ, NHƯNG phải là người nữ chưa có chồng mới dùng được. Nam giới thì vô hiệu quả.

44/. Phong Chuỷ Điểu:
Đây là vật khí hoá sát dùng hình tượng một loài thú thượng cổ, thân như mình chuột, có mỏ như mỏ chim, ức dưới có vảy như vảy rồng, có 2 sừng trên đầu. Mỏ nó ngậm một cái vòng tròn. Hai bên có 2 cái giá để thắp đèn cầy đỏ (PHẢI LÀ màu đỏ mới được), bên trong chỗ cắm đèn cầy đó có 2 mảnh kim loại đính bên trong có biểu tượng ngọn lửa.
Đây là vật Chuyên Trị sao Tam Bích Si Vưu tinh gây chuyện thị phi, tiểu nhân, quan phi cực kỳ hay và hiệu quả.

45/. Thập Bát Chiêu Tài:
Đây là một hình thái hơi lạ của Cóc ba chân (thiềm thừ). Thường được làm bằng chất liệu đồng, có hình dáng một con cóc ba chân miệng ngậm đồng tiền, NHƯNG phía thân sau của nó gác lên trên một nải chuối có 18 quả, có sợi xích vòng quanh một quả chuối dính vào trên đầu cóc ba chân và nối với một miếng ngọc bội, một sợi xích khác dính liền dưới ức cóc ba chân nối với đồng tiền trong miệng nó, và một miếng ngọc bội.
Cóc ba chân là biểu tượng Chiêu Tài, Chuối (ba tiêu) cũng là Chiêu Tài, số 18 khi phát âm lên theo tiếng Hoa đồng âm với hai chữ Thật Phát. Nên khi đi chung với nhau, chúng là một biểu tượng Chiêu Tài rất mạnh.
Vật khí này thích hợp nhất với sao Lục Bạch, đặc biệt khi Lục Bạch ở phương Bắc càng tuyệt vời.

46/. Lăng Giác Bảo:
Thường được làm bằng chất liệu gốm sứ, với các hoa văn xung quanh.
Nó có hình dạng như một cái thố có nắp chụp bên trên, có ba chân đế bên dưới, hai bên tay cầm thì lại nhọn, màu vàng kim, và có hình dáng như hai cái sừng gọi là Hoàng kim giác. Các hoa văn xung quanh có hình hoa Mẫu đơn gọi là Phú Quý hoa. Trên nắp có biểu tượng Tam Đa (quả thạch lựu tượng trưng cho Đa Tử, quả đào tiên tượng trưng cho Đa Thọ, quả Phật thủ tượng trưng cho Đa Phúc), Phúc Lộc Thọ.
Cho nên, vật khí này là vật Chiêu Tài Nạp Phúc rất hay, rất thích hợp với sao Nhất Bạch, đặc biệt khi Nhất Bạch tại Trung Cung.

47/. Đại Chú Tiệp:
Có hình dáng là một bó những đoạn trúc ngắn. Vì chữ Chú và chữ Trúc đồng âm, bản thân cây trúc có rất nhiều Tiết (đốt, mắt), chữ Tiết lại đồng âm với chữ Tiệp, hàm ý thi cử đỗ đạt, , công tác thành công. Xung quanh bó trúc, ở đoạn ống giửa hai đốt có ghi bốn chữ "Tiết tiết cao thăng" hàm ý chiêu Quý nhân đến. Cả bó trúc đó có rất nhiều đốt, gọi là "Đa tiết Văn Xương trúc". Trên bó trúc là những thỏi vàng xếp thành bệ. Trên bệ là một con Đại ngao Ngư với đầu giống đầu Rồng, với hàm ý "Độc chiếm ngao đầu"_ chiếm đầu bảng.
Vật khí này còn có tên là "Đại Văn Xương", "Vạn ý tiết tiết cao thăng". Nó là vật kích hoạt cho sao Văn Xương Tứ Lục rất hay, nhất là khi sao Tứ Lục đóng tại Cấn phương.

Tam Tai - 3 thứ tai họa

Bang tinh Sao Han 2

Bang tinh Sao Han

Hạn này ai cũng vướng cả , trong 1 vòng 12 năm Địa Chi thì có 3 năm vướng phải , tất cả các việc khởi mới đều không nên làm , từ cất nhà cho đến làm ăn.

_ Các tuổi Tị, Dậu, Sửu : Tam Tai 3 năm Hợi-Tý-Sửu
_ Các tuổi Thân, Tý, Thìn : Tam Tai 3 năm Dần-Mẹo-Thìn
_ Các tuổi Hợi, Mẹo, Mùi : Tam Tai 3 năm Tị-Ngọ-Mùi
_ Các tuổi Dần, Ngọ, Tuất : tam Tai 3 năm Thân-Dậu-Tuất

Tam tai là ba tai họa, gồm: Hỏa tai, Thủy tai, Phong tai

1. Hỏa tai
là tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng.
2. Thủy tai là tai họa do nước gây ra, như lũ lụt, sóng thần.
3. Phong tai là tai họa do gió gây ra, như bão, lốc.

Ngoài ra còn có Tiểu Tam tai là ba thứ tai họa nhỏ, gồm: Cơ cẩn chi tai, Tật dịch tai, Đao binh tai.

1. Cơ cẩn chi tai là tai họa do mất mùa lúa và rau.
2. Tật dịch tai là tai họa do bịnh dịch truyền nhiễm.
3. Đao binh tai là tai họa do chiến tranh.

Những năm Tam tai, ta sẽ bị nhiều sự rắc rối thật đáng lo ngại như chết chóc, tù đày, bịnh tật, hao tài tốn của, làm ăn thất bại, ảnh hưởng đến việc xây nhà, gả cưới cũng không được tốt.

1.Gặp hạn năm thứ nhất thường là những việc không thành, làm ăn thất bại, khó khăn kéo đến trùng trùng.


2.Gặp hạ năm thứ hai nói lên việc sức khỏe thiếu ổn định, tình trạng bệnh hoạn kéo dài có thể dẩn đến tử vong.


3.Gặp hạn năm thứ ba thường gặp là những chuyện rắc rồi liên tục nhưng không lớn lắm, ảnh hưởng đến sức khỏe, tình cảm, và công ăn việc làm.


Tuổi

Thân Tý

Thìn

Năm Dần

Sao Thiên trùng

Đầu tam tai

Năm Mẹo

Sao Thiên hình

Giữa tam tai

Năm Thìn

Sao Thiên kiếp

Cuối tam tai

Tuổi

Tỵ Dậu Sửu

Năm Hợi

Sao Địa bại

Đầu tam tai

Năm Tý

Sao Địa võng

Giữa tam tai

Năm Sửu

Sao Địa hình

Cuối tam tai

Tuổi

Dần Ngọ Tuất

Năm Thân

Sao Nhơn hoàn

Đầu tam tai

Năm Dậu

Sao Thiên họa

Giữa tam tai

Năm Tuất

Sao Địa tại

Cuối tam tai

Tuổi

Hợi

Mẹo Mùi

Năm Tỵ

Sao Hắc sát

Đầu tam tai

Năm Ngọ

Sao Âm mưu

Giữa tam tai

Năm Mùi

Sao Bạch sát

Cuối tam tai


Tất cả đều là nhân duyên quả báo mà đời trước hoặc đời này chúng ta đã gây ra. Chỉ cần chúng ta thường có tấm lòng tốt thì Chư Phật Bồ tát, Trời đất, Quỷ thần, Con Người, Tự nhiên sẽ giúp chúng vượt qua được mọi tai nạn. (Cho dù đó là tai nạn ghê ghớm nhất)

1 SỐ CÂU THIỆU LUẬN ĐOÁN CÁT HUNG

_ Trạch tạo TỨ tự tượng , phát tú thực thiên lộc : Làm nhà hình chữ TỨ , phát nhiều tài lộc.
_ Ốc tạo tự KIM hình , phú quý nhân đinh hanh : Làm nhà hình chữ KIm , giàu của nhưng hiếm con.
_ Ốc tạo BÁT tự dạng , cô bần đa ôn giáng : Làm nhà hình chữ Bát , nghèo hèn , cô hàn , bệnh tật.
_ Ốc tạo HÓA tự hình , đàm hỏa cưu bế kinh : Làm nhà hình chữ HÓA , thì bệnh đờm suyễn bế tắc khí.
_ Ốc thành Phiến diện hình , đàm lao tất linh đinh : Làm nhà hình như cái quạt , sẽ mắc bệnh lao & phiêu bạt xứ người.
_ NHÂN tự chủ đơn truyền , hoàng xấu thủ cầu quyền : Làm nhà hình chữ NHÂN , chỉ có 1 con , bệnh vàng bủng, ốm yếu, tay chân thường co quắp.
_ Ốc tác MỘC tinh trường , khắc thê chủ thiếu vong : Làm nhà như hình MỘc dài , khắc vợ , chết non.
_ Ốc tạo KIM tinh thấp , cô bần nhơn lạp thạp : Làm nhà hình KIM thấp , cô quả và đau mắt.
_ Ốc tác THỔ tinh phương , phú quý danh hiển dương : Làm nhà hình THỔ vuông vức , giàu sang nổi tiếng.
_ THỦY tinh ốc bất tề , ngỗ nghịch vô lập chùy : Làm nhà hình THỦY , là cái cao cái thấp , cái ra cái vào... thì con cháu ngỗ nghịch, nghèo hèn.
_ HỎA tinh tam giác hình , khẩu thiệt nhơn sinh dinh : Làm nhà hình HỎA tam giác , bị nhọt ở miệng lưỡi, đau mắt.
_ Ốc tác Bắc Đẩu tinh , hoành tài vượng nhân đinh : Làm nhà như hình sao Bắc Đẩu , sẽ phát hoạnh tài, người thêm đông đúc.
_ Ốc hợp THÁI DƯƠNG tinh , quan chức mãn triều đình : Hình nhà hợp với hình sao THÁI DƯƠNG , nhà có nhiều người làm quan to.
_ Ốc đại bất tàng phong , tài tán nhân đinh không : Nhà quá lớn sẽ không kín gió , của cải tiêu tán , người thưa dần.
_ Ngũ bộ lưỡng trùng ốc , phú quý đa phúc lộc : Cách khoảng 5 bước có 2 lần nhà , giàu sang phú quý.
_ Ốc đại lương trụ tiểu, thể nhược bất kinh lão : Nhà lớn mà đòn dông và cột quá nhỏ , người nhà ốm yếu không thọ
_ Ốc tiểu lương trụ đại , ủng thủng nan trường thọ : Nhà nhỏ mà đòn dông và cột quá lớn , người mắc bệnh ung bủng khó sống lâu được.
_ Lương tiểu trụ thô đại , nô khi chủ mẫu bại : Đòn dông nhỏ mà cột nhà to , nô bộc khinh chủ , nghèo hèn.
_ Lương đại trụ tế tiểu , thường bị nhơn áp đảo : Đòn dông lớn, cột lại nhỏ quá , thường bị người hà hiếp.
_ Điệp đông vô hoành sương , khởi diệt đa ôn hoàng : Nhà có nhiều cột mà không có mái che ngang , sinh bệnh ôn hoàng, đứng lên té ngã xuống.
_ Ốc nội nhất ban bình , phú quý hữu thanh danh : Nhà mà nền đất bằng phẳng , giàu sang nổi tiếng khắp gần xa.
_ Tiền cao hậu ốc đê, tổn tử hậu khắc thê : Nhà mà trước cao sau thấp , chết con , hại vợ.
_ Hậu cao tiền ốc đê, lão thiếu đa hôn mê : Nhà mà đằng sau cao , trước thấp , cả nhà già trẻ đều u mê tăm tối.
_ Trung cao tiền hậu đê , phu thê mi bất tề : Nhà ở giửa cao, trước sau thấp, vợ chồng không hòa thuận.
_ Trung cao tả hữu đê, khẩu thiệt các Đông Tây : Nhà ở giửa cao , 2 bên thấp , trong nhà thường cãi cọ , chồng ngoảnh Đông , vợ ngoảnh Tây.
_ Tiên phòng hậu hiên sảnh , tài hao như phù bình : Nhà ở đằng trước , công sở ở sau, tiền của như bèo trôi, mau hao tán.
_ Chính đường nội thâm áo, quang lượng vô hư háo : Mái nhà chính mà trong lòng nhà sáng sủa, rộng rãi thì được thịnh vượng , không bị hao tán.
_ Hậu địa khoát quá đầu, tàng lộc tàng kim tiền : Đất ở đằng sau nhà rộng hơn đầu nhà thì giàu có.
_ Chính đường ám kiện trang , quái bệnh tại lý tàng : Mái nhà chính mà đinh đóng ngâm vào cột kèo sẽ sinh quái bệnh ẩn chứa bên trong người.
_ Tiên lâu hậu thị sảnh, tổn phu quả nhơn đinh : Đằng trước là nhà lầu , sau là nhà chính , chồng chết , vợ ở góa, không con trai.
_ Tòng ốc cao quá chính , thoái bại tô cấp nhơn : Nhà phụ cao hơn nhà chính , thoái bại, của để cho người khác ăn
_ Hạ tý hữu hoành ốc, đa tử vượng lục súc : Bên dưới ( cánh tay ) có nhà ngang , nhiều con, gia súc vượng.
_ Hạ bích tiếp tiểu ốc , mãi điền tích trân cốc : Ở vách dưới có thêm cái nhà nhỏ tiếp liền , có nhiều ruộng vườn, thóc lúa ăn không hết.
_ Viên ốc kiên hữu khanh , cô bần thiếu nhơn đinh : Nhà ở xa nhìn thấy như hầm hố chôn người , bị cô quả , ít nam nhân.
_ Ốc thiêm quảng khoát cát, bức trách nhơn đa tật : Mái hiên rộng rãi là tốt , chật chội thì chớ hỏi sao người nhà hay bệnh tật.
_ Đồng chiết tà thu xanh , sao náo gia nghiệp khuynh : Cột nhà bị gãy , lấy cây cột chống xiên xẹo , tai tiếng đồn đại , gia nghiệp nghiêng đổ.
_ Trạch nội tiểu mộc kiều,sản nan tổng nan đào : Trong phòng nhà có cây nhỏ mọc cao , tai nạn sinh đẻ khó tránh.
_ Đường tiền xuất giai thiêm, thê đa sản anh hiền : Đằng trước nhà có bậc thềm thè ra , nhà sinh ra nhiều người hiền tài.
_ Hậu thiêm ngư vỹ thi,ôn bệnh tổn tiểu nhi : Mái tranh đằng sau nhà chìa ra như đuôi cá , bệnh ôn dịch , con nhỏ nguy nan.
_ Bích phương bất tương tiếp , tật bệnh biệt thê thiếp : Nhà mà cột vách không liền lạc, bệnh tật, có thể vong mạng.
_ Kê thế nhược triều đường, sang bệnh tật nan đương : Chỗ gà đậu hướng vào nhà chính , thì sinh ra nhiều bệnh tật.
_ Phương trụ trùng trú không , nha thống , xuất nhĩ tủng : Cột vách bị mối mọt rỗng không , thường bị đau răng , điếc tai.
_ Đường nội địa băng phá , tài hao đa tạp bác : Trong nhà đất vỡ lỡ thì sinh nhiều chuyện phức tạp , hao tổn.
_ Phá ốc tại môn tiền, khẩu thiệt quân sự liên : Trước nhà có cái nhà đổ nát, sinh ra tai tiếng , kiện cáo mãi.
_ Ốc hàn hiệu thiên lao , tiêu sách tợ thiêu mao : Nhà ở mà lạnh lẽo thì giống nhà giam , thoái bại nhanh như bông cháy vậy.
_ Ám câu xuyên phòng ốc , sinh trĩ sang kiếp núc : Có mạch nước ngầm xuyên trong lòng nhà , hay sinh ra bệnh trĩ , phong sang , đổ máu mũi.
_ Ốc thượng tháp tiểu ốc , tiểu khẩu mạng nan dục : trên nóc nhà lại làm thêm cái nhà nhỏ nữa , trẻ con khó giữ mạng ( tiểu khẩu còn có thể là....con của vợ nhỏ )
_ Ốc trú toát cơ khẩu , mại tận điền địa tẩu : Nhà như miệng sọt dúm lại , bán hết ruộng vườn , bỏ làng trốn đi
_ Đường tiền ốc quá cao , cô bần nhật dạ kháo : Đằng trước nhà có cái nóc nhà cao quá ,cô quả , kêu khóc đêm ngày.
_ Giáp ốc đê chiết yêu, hoành họa phạm hỏa thiêu : Có 1 cái nhà ở gần cạnh bên , thấp mà gãy lưng, tai họa bất ngờ và hỏa tai.
_ Ốc như khúc xích dạng , gia trung đa thê lương : Nhà hình như cái thước gấp , gặp nhiều cảnh đau buồn thảm thương.
_ Nhược trú hàn kiên ốc , bần cùng tai họa tốc : Nhà ở mà 2 vai lạnh rét là nghèo khổ , tai họa đến rất mau.
_ Ốc tích hung đường yêu , bôn ba phòng đạo tặc : Đòn dông nhà khác đâm vào lưng
nhà mình , ra ngoài phòng giặc cướp.
_ Chu chính đường hướng tà, hung bại nhân kinh kha : Tường chu vi ngay mà hướng nhà
thiên lệch rất hung , người nhà hay gặp sự quái lạ.
_ Ốc tự loạn tuyết cao, thoái hậu bất phú hào : Kiểu nhà rối rít như cái bánh kem , thì suy tàn không thể giàu mạnh được.
_ Đường tiền giá trực ốc , đinh tang bệnh tổn mục : Trước nhà có cái nhà khác gác thẳng vào nhà mình , hay sinh bệnh , tang chế , đau mắt.
_ Trạch nội hành đạo tà , niên cửu loạn như ma : Lối đi trong nhà xiên xẹo, thì ở lâu sẽ sinh ra đủ chuyện rối rắm.
_ Kiên tào đảo xạ đường , bộc mưu chủ nhân vong : Cột máng đổ như tên bắn chĩa vào nhà , nô bộc giết chủ.
_ Bích cước đa băng phá , tài tán thụ tai ma : Tường vách dưới chân vỡ lỡ, tiền của hao tán , tai ương.
_ Tạo tác giao lỗ ốc , hung bại thương cốt nhục : Sửa chữa mà lay động cả kèo cột , là làm thương tổn đến cả người cùng chung cốt nhục.
_ Chiết cựu bích cải chúc , phương bảo vô sai diệt : Tường cũ gãy đổ, khi xây sửa lại nên giử đúng chân móng trước ( nếu không thì làm lớn hơn chứ không nhỏ đi ).
_ Trạch hình tả đoản hữu biên trường.
Quân tử cư chi đại cát tường
Gia nội tiền tài phong thịnh phú
Chỉ nhân thứ hậu thiểu nhi lang.
Ngoại hình bên ngoài nhà mà bên trái ngắn , bên phải dài thì giàu tiền của mà ít con.

_ Thử thị nhân gian đại cát cư
Sửu Dần vô khuyết tụ tiền tư
Gia hào phú quý trường bảo thủ
Tử đệ vinh hoa đắc dật cư.
Nhà mà bên ngoài nhà không bị khuyết phương Sửu Dần thì có thể tụ tài, đỗ đạt.

_ Trung ương cao đại hiệu hoàn khâu
Tu trạch an phần tại thượng đầu
Nhân khẩu bình an đa phú quý
Phục quan thực lộc nhậm ưu du
Ở giửa cái gò tròn cao mà dựng nhà ở thì người bình an, nhà thịnh vượng.

_ Khảm Ly lưỡng biên đạo lộ hoành
Định chủ tiên cát hậu hung sinh
Nhân khẩu tư tài sơ nhất thắng
Thập niên chi hậu bất an ninh.
Trước mặt và sau nhà đều có đường lộ thì trước tốt sau xấu, ban đầu nhân khẩu, tiền tài vượng, nhưng sau 10 năm thì bắt đầu suy bại.

_ Trú trạch tu tại nhai thủy đầu
Chủ định kỳ địa bất kham tu
Ngưu dương tận tử nhân đào khứ
Tạo trạch , tu cung kiến họa thu
làm nhà ở đầu nguồn nước thì không nên , lục súc khó nuôi, người cũng mắc nạn bỏ làng trốn đi.

_ Tiền hiệp hậu khoan cư chi ổn
Phú quý bình an vượng tử tôn
Tư tài quảng hữu nhân khẩu cát
Kim châu tài bảo mãn gia môn.
Làm nhà trên mảnh đất trước hẹp sau rộng là tốt lành , tiền tài , nhân khẩu đều vượng cả , giàu sang phú quý.

_ Tiền khoan hậu hiệp tự quan hình
Trú trạch tư thời bất an ninh
Phá tận tư tài nhân khẩu tử
Bi đề thấn ngấm hữu thán thanh.
Làm nhà trên mảnh đất trước rộng sau hẹp là hung tướng , phá bại gia sản , người chết, tiếng khóc than mãi không dứt.

_ Tây Nam Khôn địa hữu khâu phần
Thử trạch cư chi tiệm tiệm vinh
Nhược thị an trang tịnh tạo ốc
Nhi tôn bối bối chủ hưng long.
Ở phía Tây Nam có 1 gò đất cao , nếu ở đó thì sẽ tấn phát, con cháu đời đời hưng vượng.

_ Trú trạch mão đại hữu khâu phần
Hậu lai cư chi định diệt môn
Ngu sư bất biện cát hung lý
Niên cửu phần tiền khuyết tử tôn.
Bên trái nhà ở có mồ mả hoặc gò đất cao, là đất hung , làm nhà nơi đó là tượng diệt môn. Thầy địa lý mà không tường tận , phán bảo sai lầm ,thì ở nơi đó không lâu sẽ tổn con cháu.

_ Đông cao Tây hạ hướng Bắc dương
chính hảo tu công hưng cải trang
Hậu đại tư tài Thạch Sùng phú
Mãn trạch gia tích lục súc cường.
Nhưng nếu bên trái cao , mà bên phải thấp, sau lưng nhà lại là núi cao , thì ở đó giàu có như Thạch Sùng , vàng bạc đầy nhà.

_ Thử trạch quan linh thủ giá cường
Khước nhân Thìn Tị hữu trì đường
Nhi tôn vượng tướng nghi tư thịnh
Giữ tiếu bại trường hữu quan phòng.
Ở trước nhà bên tay trái ( từ trong nhìn ra ) mà có ao thì ở đó trước tốt sau xấu , ban đầu con cháu hưng thịnh, về lâu thoái bại, e có việc quan sự xảy đến.

_ Trú phòng chính Bắc hữu khâu phần
Minh sư an trang định hữu danh
Quân tử cư chi quan xuất lộc
Thứ nhân cư thị gia đạo vinh.
Nhà ở mà phía sau có gò mã, gò đất cao thì tốt , người quân tử thì được làm quan , người thường cũng đặng giàu sang.

_ Tiền hậu hữu khâu bất hỷ hoan
An trang tu tạo sổ dư niên
thử trạch thường chiếu hung dữ cát
Đắc thời phú quý thất thời hiềm.
Nhà ở mà trước sau đều có gò mã, lúc tốt lúc xấu , gặp vận tốt thì giàu sang, năm gặp vận rủi thì chiêu tai rước họa , nên tránh là tốt hơn.

_ Cư trú Càn địa hữu khâu lăng
Tu trạch an trang tiệm tiệm hưng
Nữ nhân nhập cung vi phi hậu
Nhi tôn dĩ hậu tác công khanh.
Ở phía đằng sau bên phải nhà ở có gò , lăng , mộ là tốt cực kỳ . Sản sinh bậc phi, hậu , con cháu đều phát công danh.( Tuy nói vậy , nhưng còn kết hợp nhiều yếu tố nữa mới được ) __________________